Bình Định: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu giai đoạn 2016 – 2020

bởi

trong

Dưới đây là tình hình phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh giai đoạn 2016 – 2020:

Công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, thực phẩm và đồ uống

Trong giai đoạn 2016 – 2020, ngành công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, thực phẩm và đồ uống của tỉnh Bình Định được đầu tư phát triển trên cơ sở gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đạt được những kết quả nhất định.

– Công nghiệp chế biến thủy sản: Sản lượng chế biến thủy sản giai đoạn 2016 – 2020 tăng, nhất là thủy sản ướp đông ước tăng 9,9 %/năm.

– Công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi: Các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi hoạt động ổn định và phát huy được hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của người chăn nuôi, từng bước hình thành và phát triển cụm ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Trên địa bàn tỉnh đã đầu tư 15 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi với tổng công suất thiết kế đạt trên 3,29 triệu tấn sản phẩm/năm, trong đó có 11 nhà máy đã đi vào hoạt động với công suất 1,78 triệu tấn sản phẩm/năm. Ước năm 2020, sản lượng đạt 1,75 triệu tấn, bình quân giai đoạn 2016 – 2020 tăng 22,4 %/năm.

– Công nghiệp sản xuất đồ uống, nước giải khát: Tỉnh đã tạo điều kiện cho Nhà máy sữa Bình Định phát triển sản xuất, phát huy công suất đầu tư với sản lượng sản xuất hàng năm đạt trên 40 triệu lít sản phẩm/năm. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án “Đầu tư nâng công suất Nhà máy sữa Bình Định từ 180.000 lên 252.000 tấn sản phẩm/năm”, dự kiến cuối năm 2020 hoàn thành đi vào hoạt động sản xuất. Nhà máy Bia Quy Nhơn đã phát huy hết công suất đầu tư, sản lượng sản xuất đều tăng qua các năm, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 5,8%/năm. Hiện nay, Công ty CP Bia Sài Gòn – Miền Trung đang triển khai đầu tư mở rộng nâng công suất hoạt động Nhà máy Bia tại Khu công nghiệp Phú Tài từ 50 triệu lít/năm lên 80 triệu lít/năm, dự kiến cuối năm 2020 hoàn thành đi vào hoạt động sản xuất. Đã hoàn thành đầu tư và đưa vào hoạt động thử nghiệm dự án Nhà máy chưng cất và sản xuất rượu Bàu Đá chất lượng cao với công suất 9.000 lít/ngày tại xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn, tạo điểm nhấn trong phát triển Làng nghề Rượu Bàu Đá gắn với phục vụ du lịch của tỉnh.

– Công nghiệp chế biến tinh bột sắn: Các nhà máy chế biến tinh bột sắn tại các huyện Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, nhà máy chế biến tinh bột biến tính tại KKT Nhơn Hội đi vào hoạt động sản xuất ổn định. Sản lượng sản xuất tăng trưởng qua các năm với mức tăng bình quân đạt 22,4%/năm. Tuy nhiên vào cuối năm 2017, nhà máy chế biến tinh bột sắn tại huyện Phù Mỹ phải ngừng sản xuất để khắc phục những tồn tại do gây ô nhiễm môi trường.

– Công nghiệp mía đường: Hoạt động của ngành mía đường trong giai đoạn 2016 – 2020 không đạt như kỳ vọng. Đầu năm 2018, Công ty CP dường Bình Đường thực hiện xử lý nước thải đầu ra vượt so với quy định cho phép gây ô nhiễm môi trường nên bị tạm đình chỉ hoạt động để khắc phục. Nhà máy dừng hoạt động từ tháng 4/2018 và đến nay đã phá sản.

Công nghiệp chế biến lâm sản

– Chế biến đồ gỗ: Thị trường xuất khẩu đồ gỗ có dấu hiệu chững lại trong những năm qua do tác động ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới, biến động chính trị ở nhiều nước diễn ra phức tạp, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc cạnh tranh nguyên liệu gỗ có chứng chỉ hợp pháp. Từ năm 2016 đến nay, nhiều hiệp định thương mại tự do được ký kết có hiệu lực và nhờ cắt giảm các dòng thuế suất đã và đang góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu gỗ. Nhiều doanh nghiệp đầu tư nâng cấp công nghệ và máy móc, thiết bị trong sản xuất đồ gỗ xuất khẩu để từng bước hiện đại hóa các nhà máy chế biến, nâng cao chất lượng và đa dạng mẫu mã sản phẩm. Một số doanh nghiệp như Công ty CP Kỹ nghệ gỗ Tiến Đạt, Công ty CP Phú Tài, Công ty CP Công nghệ Gỗ Đại Thành, Công ty CP Phước Hưng, Công ty CP Hoàng Hưng… đã đầu tư nâng công suất, mở rộng quy mô hoạt động chế biến đồ gỗ nội thất. Đã xây dựng Đề án phát triển cây gỗ lớn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2035, trong đó đến năm 2020 diện tích trồng rừng gỗ lớn là 10.000 ha (diện tích chuyển hóa từ rừng gỗ nhỏ sang kinh doanh cây gỗ lớn là 2.218 ha, diện tích rừng trồng sau khai thác trồng lại cây gỗ lớn là 7.782 ha), năng suất bình quân trên 20m/ha/năm, sản lượng gỗ lớn bình quân đạt 50 – 60 %.

– Chế biến lâm sản khác: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng dăm gỗ trong thời gian qua nhìn chung tăng trưởng chậm do giá xuất khẩu giảm, Trung Quốc hạn chế nhập khẩu, luồng ra vào Cảng Quy Nhơn không thuận lợi sau hậu quả cơn bão năm 2017. Việc điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng dăm gỗ nhằm hạn chế xuất khẩu nhưng kết quả mang lại chưa cao; giai đoạn 2016 – 2020 bình quân dăm gỗ tăng 2,7 %/năm. Mặt hàng viên gỗ nén có sự phát triển qua các năm, trên địa bàn tỉnh có 12/19 nhà máy đi vào hoạt động với công suất thiết kế 560/1.225 nghìn tấn/năm. Sản lượng bình quân tăng 8,8 %/năm về lượng và 16,6%/năm về kim ngạch xuất khẩu, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hàn Quốc. Tình trạng gây ô nhiễm môi trường tại Công ty TNHH Năng lượng sinh học Vân Canh, Công ty CP Năng lượng Bình Định, Công ty CP Nguyệt Anh… đã được chỉ đạo xử lý kịp thời. Đầu tư xây dựng nhà máy chế biến ván MDF với công suất thiết kế 60.000 m/năm do Công ty TNHH Gỗ MDF Bình Định làm chủ đầu tư chậm tiến độ.

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng

Phát triển sản xuất vật liệu xây dựng cả về số lượng, chất lượng, chủng loại, đáp ứng được cơ bản nhu cầu một số loại vật liệu xây dựng như vật liệu xây, lợp, cát đá xây dựng, một phần vật liệu trang trí hoàn thiện phục vụ cho nhu cầu tại chỗ, các khu vực lân cận và tham gia xuất khẩu, nâng dần khả năng cạnh tranh với các địa phương trên địa bàn cả nước, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, cảnh quan môi trường và phục vụ cho công tác quản lý ngành trên địa bàn trong thời gian tới.

Hoàn thành điều chỉnh Quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng, đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch khoáng sản đất, cát làm vật liệu xây dựng thông thường. Tích cực triển khai các biện pháp chấm dứt hoạt động sản xuất gạch, ngói nung bằng lò thủ công, số lượng cơ sở sản xuất gạch tulip bằng lò thủ công giảm từ 958 là năm 2015 đến nay còn 194 lò (hiện chí còn trên địa bàn huyện Tây Sơn), tham mưu UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng lò Hoffman, Tuylen để chuyển đổi công nghệ phù hợp với quy hoạch sản xuất vật liệu gạch đất sét nung. Đến nay có 11 dây chuyền sản xuất gạch không nung đi vào hoạt động, tổng công suất thiết kế là 98 triệu viên QTC/năm. Một số sản phẩm mới được đưa vào sản xuất như: gạch không nung nhẹ, tấm lợp, vữa khô trộn, ván dăm ép sẵn.

Công nghiệp dệt may – da giày

– Dệt may: Trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh có nhiều dự án dệt may được đầu tư và đi vào hoạt động sản xuất ổn định đã phát huy hiệu quả nên ngành luôn giữ được mức tăng trưởng khá, bình quân tăng 19,6 %/năm về lượng và 18,2 %/năm về kim ngạch xuất khẩu. Tập đoàn Dệt May Việt Nam, Tổng Công ty May Nhà Bè tiếp tục đầu tư, phát triển hệ thống nhà máy may trên địa bàn tỉnh, từng bước hình thành và phát triển cụm ngành công nghiệp may. Đến nay, toàn tỉnh có trên 80 doanh nghiệp dệt may, giải quyết việc là cho khoảng 15.000 lao động.

– Da giày: Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 doanh nghiệp sản xuất hàng da giày với công suất 2,5 triệu đôi/năm, hiện đang hoạt động sản xuất ổn định, giải quyết việc làm cho khoảng 1.200 lao động. Thị trường xuất khẩu EU truyền thống có clẩu hiệu chững lại do đơn đặt hàng từ EU bị phân tán sang các nước khác như Ấn Độ, Myanmar, Lào, Campuchia, Bangladesh và các quốc gia này cũng được hưởng ưu đãi thuế quan. Bình quân hàng năm tăng 4,5 %/năm về lượng và 7,1 %/năm về kim ngạch xuất khẩu.

Công nghiệp hóa chất và dược phẩm

Doanh nghiệp ngành dược hoạt động trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì sản xuất ổn định và có bước phát triển khá. Hiện nay, sản phẩm dung dịch truyền của Công ty CP FKB đã chiếm khoảng 60% thị phần dung dịch truyền trong nước; các sản phẩm dược của Công ty CP Dược – Trang thiết bị Y tế Bình Định có thị trường tiêu thụ ổn định, một phần xuất khẩu sang các nước Lào, Campuchia, Mông Cổ, Triều Tiên, Ý, Canada. Đã thu hút 5 dự án sản xuất dược phẩm đầu tư tại Khu công nghiệp A – Khu kinh tế Nhơn Hội với tổng vốn đầu tư 1.185 tỷ đồng, trên diện tích 10 ha. Đã hoàn thành đầu tư và đưa vào sản xuất Nhà máy ống nhựa Hoa Sen Bình Định với tổng công suất 24.000 tấn sản phẩm/năm.

Công nghiệp chế tạo máy, cơ khí

Ngành cơ khí chế tạo từng bước nâng cao năng lực cơ khí chế tạo, sửa chữa và sản xuất phụ tùng thay thế để phục vụ đắc lực cho các ngành kinh tế như đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, chế biến nông, lâm, thủy sản. Đã hình thành và phát triển các cụm công nghiệp (CCN) theo địa bàn như CCN Quang Trung, TP.Quy Nhơn; CCN Gò Đá Trăng, thị xã An Nhơn. Đã thu hút được 01 dự án Nhà máy đóng tàu vỏ thép Tam Quan liên doanh giữa Công ty CP thủy sản Hoài Nhơn và Công ty Bu Kang (Hàn Quốc) có tổng vốn đầu tư trên 3 triệu USD, công suất đóng mới từ 15 – 20 tàu vỏ thép /năm.

Nhà máy thép Hoa Sen Nhơn Hội – Bình Định của Công ty TNHH MTV Hoa Sen Nhơn Hội – Bình Định với công suất 450.000 tấn/năm, vốn đầu tư 2.900 tỷ đồng đi vào hoạt động giai đoạn 1 quý 3/2017 và giai đoạn 2 quý 2/2019 đã góp phần đáng kể giá trị sản xuất công nghiệp mới cho toàn ngành trong giai đoạn này.

Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản

Trong thời gian qua, nhờ tăng cường công tác quản lý tài nguyên khoáng sản trên địa bàn, chấn chỉnh hoạt động khai thác khoáng sản, do đó tình hình hoạt động khoáng sản cơ bản đi vào nề nếp. Hoạt động khai thác khoáng sản đáp ứng nhu cầu cho các ngành chế biến khoáng sản và sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh. Mặt hàng đá granite tăng khá qua các năm, bình quân tăng 28,9 %/năm chủ yếu do có thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, sản lượng khai thác, chế biến khoáng sản có xu hướng chững lại và suy giảm, rõ nét là hoạt động khai thác, chế biến quặng titan.

Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước

– Công nghiệp sản xuất và phân phối điện: Trong thời gian qua đã tiếp tục cải tạo mạng lưới phân phối điện, nâng cấp mới các đường dây trung áp và hạ áp để cấp điện ổn định và an toàn cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng trên địa bàn tỉnh. Xây dựng lưới điện đến các thôn, cụm dân cư, đảm bảo chất lượng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Đến nay, đã có 120/121 xã xây dựng nông thôn mới đạt tiêu chí về điện nông thôn (trừ xã Canh Liên , huyện Vân Canh ).

Đã khuyến khích, thu hút các dự án điện mặt trời, điện gió ở những nơi có điều kiện phát triển như Nhà máy điện mặt trời Cát Hiệp tại huyện Phù Cát, công suất 49,5 MW; nhà máy điện mặt trời và điện gió Fujiwara Bình Định tại Khu kinh tế Nhơn Hội, công suất 100 MW, Nhà máy sản xuất năng lượng điện từ năng lượng gió và mặt trời do Công ty TNHH Năng lượng Seoul (Seoul Photo Voltaic Co., Ltd) làm chủ đầu tư, công suất 68 MW, Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 1, 2 và 3… trong năm 2019, đưa vào hoạt động 2 nhà máy với tổng công suất gần 100 MWp; đã khảo sát, nghiên cứu đầu tư các dự án năng lượng mới tại các xã Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ An, huyện Phù Mỹ…; đã tạo điều kiện các dự án thủy điện hoàn thành đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động như thủy điện Trà Xom, Vĩnh Sơn 5, Tiên Thuận, Nước Xáng …

– Công nghiệp sản xuất và phân phối nước, xử lý rác thải nước thải: Hiện nay trên địa bàn tỉnh có tổng số 15 nhà máy xử lý nước sạch cung cấp cho các đô thị với tổng công suất là 77.920 m2/ngày.đêm, trong đó, nhà máy cấp nước Phú Tài và Nhà máy xử lý nước Hà Thanh cấp nước cho TP.Quy Nhơn với tổng công suất 54.300 m3/ngày.đêm; 13 đô thị còn lại được cấp nước sạch bởi 13 nhà máy xử lý nước với tổng công suất là 23.620 m3/ngày.đêm. Tỷ lệ dân số được cấp cung cấp nước sạch trong khu vực dân cư đô thị đạt khoảng 78% (tăng 3% so với năm 2015); trong đó, 100% nội thành TP.Quy Nhơn được cung cấp nước sạch; tại các đô thị khác tỷ lệ này dao động từ 54,4% đến 88,18%. Hệ thống phân phối nước sạch được cải thiện qua các năm do quá trình đầu tư mới tại các khu đô thị mới, khu tái định cư, quá trình nâng cấp, sửa chữa mạng lưới cấp nước. Để phục vụ nhu cầu xây dựng, sản xuất công nghiệp, sinh hoạt trên địa bàn Khu kinh tế Nhơn Hội, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư dự án hệ thống cấp nước Khu kinh tế Nhơn Hội do Công ty CP HalCom Việt Nam có tổng công suất 100.000 mở ngày đêm với tổng vốn đầu tư 2.280 tỷ đồng.

TP.Quy Nhơn có 02 nhà máy xử lý nước thải và 12 trạm bơm nước thải; các đô thị khác chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung. Có 03 khu công nghiệp (Phú Tài, Long Mỹ, Nhơn Hòa), khu kinh tế Nhơn Hội và 07 cụm công nghiệp đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung theo quy định; tuy nhiên, một số cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung hoạt động không đạt công suất thiết kế do không có nước thải đầu vào.

Nhà máy tái chế và xử lý chất thải nguy hại tại xã Cát Nhơn hoàn thành đầu tư xây dựng đi vào hoạt động, công suất 17 tấn/ngày. Một số dự án xử lý rác thải đều triển khai chậm tiến độ, hoạt động chưa hiệu quả.

Công nghiệp hỗ trợ

Triển khai thực hiện Nghị định số 11/2015/NĐ – CP ngày 03/11/2015 của Chính phủ về phát triển Công nghiệp hỗ trợ, UBND tỉnh ban hành Chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Bình Định đối với các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có thế mạnh của tỉnh.

UBND tỉnh chỉ đạo các Sở, ngành phổ biến, hướng dẫn, thông tin kịp thời các chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Trung ương và địa phương đến các đối tượng được hưởng theo quy định./.

Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Bình Định

Ngô Mai Hương

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại