Via

Video kho báu huyền thoại eng code

3Trong cách nhìn này, cảnh quan, theo Hiệp Ước Châu Âu ký tại Florence (2000), được định nghĩa như « một phần lãnh thổ của dân ngụ cư tại đó (…) » được xem là một đối tượng vật chất của nhiều nhóm đại diện xã hội. Cảnh quan đóng vai trò là một vật trang trí mang nhiều ý nghĩa thông qua những nhân tố đại diện cho sự kitsch hóa (chủ yếu là Nhà nước và các nhân tố trong du lịch) và khán giả của nó (khách du lịch).

4Để giải quyết vấn đề phức tạp của câu hỏi về quá trình kitsch hóa cảnh quan khi vận dụng vào du lịch, chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc mô tả sự trang trí cảnh quan thông qua phối cảnh của nó, bằng cách chỉ ra những tiêu chí nào được coi là kitsch. Tiếp đến, chúng ta sẽ phân tích trải nghiệm nhắm đến du khách – chủ yếu là khách nội địa ở Trung Quốc (Taunay, 2011) và Việt Nam (Peyvel, 2009), khách quốc tế ở Nê-pan (Sacareau, 1999), nhằm tiếp cận và diễn giải, một hoặc nhiều thông điệp ẩn dấu bên trong.

5Ở các điểm đến châu Á, hệ thống du lịch, theo nghĩa của sự tập hợp những địa điểm được ghé thăm tạo nên điểm đến, thường dựa trên quá trình kitsch hóa cảnh quan, mà ba địa điểm khảo sát có những tình huống so sánh được

A. Đặc tính kitsch qua ba điểm đến du lịch ở châu Á

6Bối cảnh của sự kitsch hóa về cảnh quan tại Nam Á và Đông Nam Á

8Thành phố Đà Lạt (Việt Nam), Pokhara (Népal) và Sandu (Trung Quốc) như ví dụ minh chứng cho hệ thống du lịch kitsch ở Châu Á

9Thành phố Đà Lạt, Pokhara và Sandu, và các vùng nông thôn phụ cận, sở hữu hệ thống du lịch có thể so sánh được theo quan điểm kitsch được huy động, tuy nhiên có một số thay đổi nhất định trong phương thức sử dụng.

10Đà Lạt và Pokhara là những khu nghỉ dưỡng ôn đới với độ cao từ 1000 đến 1500m trong môi trường nhiệt đới, nhờ đó nhanh chóng trở thành « thiên đường tươi mát » được yêu thích. Hai thành phố này có điểm chung là cảnh quan nông thôn miền trung du (văn hóa trà ở Pokhara, café ở Đà Lạt) được tô điểm thêm hệ thống thác nước và hồ đa dạng, nơi giao thoa giữa thảm thực vật nguyên sinh và nghề trồng cây. Các khu vực ngoại vi này (theo nghĩa của chủ nghĩa đế quốc) được đánh dấu bởi tính dân tộc do sự hiện diện của những dân tộc thiểu số đại diện cho tính nguyên gốc, và điều này, ngay từ thời du lịch phát triển đầu tiên ở Pokhara và Đà Lạt (thời Anh thuộc ở Pokhara và thời Pháp thuộc ở Đà Lạt). Tất cả các thành phần « chính yếu » nêu trên, trong sự phấn khích hiện tại về sự nổi tiếng và sức hấp dẫn của những điểm đến này, giờ đây được làm nền cho loại hình du lịch đại trà, nơi mà vật nhân tạo và bầu không khí mong muốn (hiệu ứng) chiếm ưu thế (chúng tôi dùng từ nền tảng theo hai nghĩa, vừa là « cơ sở », vừa là « nguồn vốn thương mại »)

11Trái với Đà Lạt và Pokhara, Sandu không phải là khu nghĩ dưỡng có từ lâu đời, mà chỉ khoảng đầu những năm 2000, được quy hoạch thành khu nghỉ dưỡng du lịch phía Nam tỉnh Guizhou, thủ phủ xian (hay quận) của Sandu trong khu tự trị Qiannan. Là một phần trong mong muốn của chính phủ trung ương nhằm mục đích phát triển du lịch nội địa ở các vùng nông thôn nghèo miền núi, như tỉnh Guizhou. Trong khuôn khổ chính sách du lịch của tỉnh, tập trung vào cả du lịch tự nhiên và du lịch dân tộc, Sandu trở thành điểm kết nối với thành phố Guiyang và được xây dựng như một điểm đến du lịch dựa trên hình ảnh « thủ phủ » của tộc người Thủy (Shui). Nằm trong khu vực được hưởng cứu trợ, thủ phủ tỉnh Qiannan được hưởng lợi từ năm 2015 trong việc phát triển cơ sở hạ tầng đường bộ (đường cao tốc) và đường sắt (tuyến tàu cao tốc) vì lợi ích của việc phát triển du lịch ở các ngôi làng của dân tộc Thủy cho đến nay rất ít bị ảnh hưởng bởi du lịch. Nếu lượng khách du lịch tại hạt Sandu tăng – từ 80.000 du khách vào năm 2005 lên 450.000 vào 2016 (Taunay, 2017), thì vẫn thấp hơn nhiều so với Đà Lạt và Pokhara, mỗi nơi thu hút vài triệu du khách hàng năm. Hạt Sandu, cũng như hai thành phố khảo sát còn lại, đang nỗ lực tăng cường thu hút khách du lịch và kéo dài thời gian lưu trú (hiện tại vẫn còn khá hạn chế cho hình thức du ngoạn), bằng cách xây dựng những khu phố gọi là khu phố « dân tộc » (bao gồm lối kiến trúc và quy hoạch đô thị cụ thể, cửa hàng thủ công mỹ nghệ, viện bảo tàng, nhà hàng) với nhiều loại hình lưu trú đa dạng như lưu trú tại nhà dân và mở thêm nhiều khu du lịch mới (gọi là jingdian ở Trung Quốc).

12Chiến lược phát triển của những thành phố nghỉ dưỡng này và các vùng phụ cận dựa trên những biến đổi lớn, dẫn đến việc bổ sung nhiều vật nhân tạo theo mẫu chuẩn, một sự kitsch hóa thiên nhiên. Đây là những nguyên tắc của sự phối cảnh kitsch trên ba thành phố khảo sát của chúng ta, mà chúng tôi sẽ đề cập ngay sau đây.

B. Nghệ thuật phối cảnh kitsch

13Sự dàn dựng các địa điểm du lịch dẫn đến việc sản xuất cảnh quan kitsch, thể hiện một số đặc điểm chung mà chúng tôi đã thống kê qua các địa điểm nghiên cứu khác nhau dựa trên những công trình nghiên cứu của Moles (1969), Baudrillard (1981) và Genin (2010).

14Sự quá tải thể hiện qua việc tích tụ và pha trộn nhiều phong cách

15Một trong những đặc điểm của kitsch là sự huy động tối đa số lượng vật nhân tạo dưới dạng tích lũy các vật thể khác nhau một cách phô trương (Moles, 1971).

17Đà Lạt được xây dựng bởi người Pháp trong thời thuộc địa vào năm 1893, ngay từ buổi sơ khai, đã định hình phong cách kiến trúc đa dạng rập khuôn từ các tỉnh thành của Pháp (với ưu thế là Alsac, Lorraine và Normandie), tất cả tập trung tại một cao nguyên có khí hậu mát mẻ và ẩm ướt, cảnh quan miền trung du và đặc biệt là cây thông đặc hữu (pinus dalatensis) nhắc nhớ người Pháp về những kỳ nghỉ tại quê nhà. Để xây dựng khu nghỉ dưỡng Đà Lạt, ngoại trừ khí hậu và cảnh quan có sẵn, cần phải tăng cường cái gọi là « thực tế » bởi quy hoạch : hồ (tất cả hồ ở Đà Lạt đều là nhân tạo), công viên, khu biệt thự nghỉ dưỡng, v.v. Tất cả sự quy hoạch này được xếp chồng lên nhau, đôi khi có liên quan đến tính chất bản địa của các địa điểm trong quá trình thay đổi cảnh quan sử dụng cho hệ thống du lịch kitsch. Đó là từ những năm 1960-1970, Đà Lạt, vẫn còn trong « không khí thuộc địa », đã trở thành điểm đến yêu thích của văn nhân nghệ sĩ Việt, họ đến để đắm chìm trong bầu không khí yên bình, cho phép quên đi thế cuộc thời bấy giờ. Không gian lãng mạn pha lẫn u sầu của thành phố này đóng vai trò như một chất xúc tác mang đến cho họ « cảm giác » giống với những nghệ sĩ « thực thụ » của châu Âu (Nguyên, 2016). Sự phát triển gần đây của du lịch trong thành phố chỉ củng cố xu hướng này đến mức thúc đẩy chủ nghĩa tiêu thụ.

18Như giải thích của A. Moles (1971), trong phong cách kitsch, bề mặt của sự vật, diện mạo là sự liên tục. Ngoài ra, kitsch còn giúp lấp đầy những khoảng trống. Đó là nguyên tắc làm đầy dẫn đến sự thừa mứa trong trang trí. Đà Lạt của ngày hôm nay là một minh chứng sống cho điều này. Màu sắc được sử dụng thuộc gam nóng, và sự chuyển đổi từ màu này sang màu khác khá đột ngột (mà không làm lệch tông màu). Ví dụ từ màu đỏ (màu của sự may mắn, thịnh vượng ở Việt Nam) sang màu hồng cánh sen (các bức tượng chim hồng hạc trong Thung Lũng Tình Yêu, những trái dâu Tây hoặc hoa trang trí bằng nhựa…). Ngoài ra, bảng màu kitsch sử dụng màu trong bảy sắc cầu vồng được áp dụng trong những công viên giải trí bao quanh thành phố (Thung Lũng Tình Yêu, thác Datanla, Crazy House, XQ, Đường hầm Đất Sét…) cho đến mức bão hòa. Nguyên vật liệu sử dụng hiếm khi xuất hiện với tính nguyên gốc của nó. Gỗ được sơn để giả cẩm thạch, lan can bằng bê tông được sơn để bắt chước thân cây, cột kim loại làm từ thạch cao… Nguyên liệu nhựa được dùng nhiều nhất do giá thành rẻ và dễ « đúc ». Những vật liệu này cũng dễ dàng tìm thấy ở các ngôi làng dân tộc thiểu số Trung Quốc, trước đây, gỗ được sử dụng làm điểm đánh dấu để củng cố vẻ đẹp như tranh vẽ của các ngôi làng này, nhưng ngày nay, chúng được làm chủ yếu bằng bê tông.

19Ở Lakeside (Pokhara),sự khuếch trươngxuất hiện trước tiên dưới dạng tôn giáo và thống nhất bởi các ngôi đền Hin đu giáo và Phật giáo (Pinney, 1995) và góp phần vào bầu không khí đặc biệt của những cuộc hành hương. Tuy nhiên, thời kỳ hippie (Devi’s Fall, Lac Bégnas) trong những năm tháng Hòa Bình và Tình Yêu (Peace & Love) đã tạo nên một dạng tiếng ồn đặc biệt (một bầu không khí thoải mái) mà ở đó, ngoài một vài nhân chứng (và lời chứng) sống, hình thành nên thị trường hàng hóa cho điểm đến. Nó được thực hiện bởi một khoảng đầu tư đầu cơ ở mặt hồ, sau đó trở thành Fish tail lodge (được xếp hạng trong cuốn sách bán chạy nhất về 1000 điểm đến phải đi trong cuộc sống của bạn, Schultz, 2003) như một nơi đặc trưng của thành phố. Dọc bờ hồ là một loạt các quán bar đa dạng như Olive café, Busy Bee, Maya pub, Pokhara Java, Hungry Eye… thu hút lượng khách trekking đến nghỉ ngơi trong khung cảnh « thời thượng », lối trang trí rococo chiếm phần lớn gây ảo giác về thời « hậu hippie ».

20Sự xóa nhòa các tỷ lệ

21Một khía cạnh khác của Kitsch, sau khía cạnh giữ khoảng cách với sự kìm kẹp của địa phương, là sự xóa bỏ tỷ lệ của các vật thể được thể hiện (Battesti, 2017), tạo ra một cảnh quan không cân xứng và toàn trị. Nếu như lối trang trí kitsch mang lại sự chung sống không thể xảy ra, thì về bản chất nó là biến dạng, những vật dụng phản ánh vật thực cũng không được sử dụng trong một thang đo cố định.

22Cũng như ở Đà Lạt, một trái dâu tây có thể có kích thước khổng lồ, còn tháp Eiffel, đỉnh Himalaya của Nê-pan, hay thậm chí đỉnh Langbiang của Việt Nam xuất hiện với mẫu nhỏ hơn phiên bản thật (tài liệu từ số 2 đến số 5). « Thang đo lý tưởng » là thang đo sử dụng kích thước tối đa của tầm nhìn liên quan đến một mục tiêu cụ thể : có nghĩa là trong một tấm ảnh có thể bao quát hết được tất cả các vật đại diện (một ngọn núi, một trái dâu hay một con thiên nga…) và khách tham quan trong tình huống đó. Chính sự tiệm biến kể trên tham gia vào quá trình tạo ảnh tuyệt vời.

23Trò chơi đa hướng này cũng được áp dụng trong các vật lưu niệm cho khách mua về (tháp Eiffel trong quả cầu tuyết, hay gấu trúc nhồi bông khổng lồ…), kích thước (và chất liệu) được điều chỉnh theo tiêu chuẩn cho hành lý cabin, đặc biệt là những vật lưu niệm được bày bán ở những quầy duty free tại sân bay.

24Sự vận dụng cái giả tạo

25Những ảnh hưởng của chủ nghĩa ngoại lai, thể hiện qua sự quá tải và sự biến đổi thang đo chắc chắn thu được bởi một tính năng khác của kitsch : sự vận dụng cái giả tạo (Baudrillard, 1981). Hầu hết các vật thể kitsch là vô tri, như những vật trang trí, hay bối cảnh nội tại của một câu chuyện kể. Cũng đôi khi, bị lạm dụng quá mức như ở Guilin và Tianmen (Xiang et al., 2017) trong việc sản xuất một chương trình với ánh sáng và âm thanh hoành tráng. Chúng ta có thể suy luận rằng « tính kitsch luôn dựa trên sự nói dối » (Menon, 2006), hay như Umberto Eco (1985) ví von như « lời dối trá nghệ thuật ».

26Các ngôi làng Trung Quốc, nơi tập trung những khu « dân tộc » ngày một phát triển ở Sandu, đã bị biến đổi dưới tác động của những vật thể nhân tạo nhằm phóng đại bầu không khí gần với cảnh quan lý tưởng của Trung Quốc – sơn thủy, cảnh quan núi và nước – nhằm củng cố tính dân tộc (Gauché, 2017). Do đó, ở Gulu, người ta xây dựng thêm mặt tiền giả của những ngôi nhà bằng gỗ, trong khi những viên sỏi lớn có thể nhìn thấy trong một bức tường đá, được gọi là « trứng đá », được dàn dựng thông qua việc tạo ra một thác nước nhân tạo chảy qua những tảng đá giả, mang dòng chữ giả của một nhà thơ người Trung Quốc nhằm tăng tính linh thiêng của nơi này. Chúng tôi đến tham quan theo một con đường dốc, được quy hoạch ngay từ đầu, được trang trí các bức tượng Thần Thủy với vẻ ngoài ma quái, mà câu chuyện kể « chính thức » của điểm du lịch này tuyên bố giống với những vị Thần Thủy thật sự, tuy nhiên, trên thực tế, những vị thần trên không hề tồn tại ở tộc người thiểu số này.

27Hơn nữa, ở rìa Đà Lạt, vài ngôi làng gọi là làng dân tộc (như Làng Cù Lần) được tạo ra từ đầu (trên mặt đất) nhằm phục vụ khách du lịch, du khách có thể đến trải nghiệm trong những ngôi nhà bê tông, nơi họ được kể những câu chuyện thần thoại và những truyền thuyết về vũ trụ hoàn toàn được sáng chế ra bởi những người làm du lịch.

28Sự vận dụng cái giả tạo này tương xứng với xu hướng tích lũy tối đa các dấu hiệu để tạo nên trải nghiệm du lịch một cách đặc biệt nhất có thể, với một sự đầu tư về tài chính tối thiểu (chi phí đầu tư thấp, mô phỏng không cần bản quyền…) để nâng tần suất tối đa (mạch khối chuẩn hóa). Sự thiên vị này có xu hướng thay đổi vị trí của cảnh quan nông thôn trong thế giới kitsch.

C. Từ cảnh quan nông thôn phục vụ sản xuất đến cảnh quan nông thôn phục vụ cho mục đích trang trí

29Cảnh quan nông thôn đi vào hệ thống du lịch như một sự « tự nhiên » (một chủ nghĩa tự nhiên thẩm mỹ). Nó được thể hiện qua những bản sao (những trái dâu tây bằng nhựa, các mô phỏng nhà sàn người dân tộc, nhà gỗ giả vùng Alpe…). Nhưng vượt ra khỏi tính thôn dã, các công viên giải trí còn thêm thắt nhiều chi tiết đa dạng. Đặc biệt, không gian « hoang dã » như một ứng viên sáng giá. Ví dụ đơn cử, trong Thung Lũng Tình Yêu ở Đà Lạt, một khu rừng rậm được tái lập một cách ngắn gọn trong đó các động vật giả gần như « kích thước thật », hổ, tê giác, voi… bằng nhựa cứng đứng bất động. Chúng ta không tìm kiếm tính nguyên gốc, nhưng sự gợi ý xung quanh một điểm thu hút (một dạng tập trung ở một nơi kín) mang đến một ấn tượng nhất định : khi tham quan một hay nhiều loại rừng rậm, giống với thực thể, ít nhất là trên ảnh chụp hoặc livestream, khi đi tham quan bằng phương tiện vận chuyển (jeep, mán trượt, xe đạp nước…) (tài liệu số 6, 7, 8). Ngoài ra, tính kitsch còn thể hiện sự nghịch lý là muốn làm nổi bậc vật nhân tạo bằng cách vô hình hóa những gì liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp đến vật nguyên gốc.

30Tiếp nối với cảnh quan nhân tạo, sự « nông thôn hóa » được thể hiện trong « sản phẩm địa phương » có thể tiêu thụ. Xung quanh Đà Lạt, bắt đầu từ nhà kính trồng dâu tây, nơi bạn có thể thưởng thức dưới dạng pick & carry (hái và mang về), đến các vườn hồng, và thậm chí những cánh đồng hoa oải hương hoặc hoa thạch thảo màu sắc tía, nơi mà kích thước cảnh quan được thêm vào mùi hương ngoại nhập. Xung quanh những khu vườn thích nghi này, một loại hình du lịch mới đang phát triển : du lịch nông thôn, hay nông thôn ngoại nhập, rất Tây. Trong những mùa thu hoạch hoa và quả ở Đà Lạt, người nông dân đã mở thêm dịch vụ tham quan các cánh đồng cùng với hoạt động nông nghiệp chính. Ví như ở những trang trại hoa (nơi thường xuyên trồng các loại hoa ly, hoa hồng, hoa hướng dương và cẩm tú cầu, tài liệu số 9 và 10), du khách phải trả từ 10.000 đến 30.000 đồng/người phí vào cổng (khoảng 0,4 đến 1,2 EUR) cho hoạt động hái hoa và chụp ảnh. Nếu ở thời thuộc địa, Đà Lạt nổi tiếng bởi cây trái và rau củ có khí hậu ôn đới (kể cả cây artichaut nổi tiếng) dành cho cư dân trong khu nghỉ mát (như một hình thức chữa bệnh dựa trên các nông sản tươi tại vườn), thì ngày nay, khoảng đầu những năm 2000, Đà Lạt còn bắt đầu lấn sân sang lĩnh vực sản xuất rượu vang, kèm cả dịch vụ bán sản phẩm tại nhà máy (kể từ 2008). Đây thật sự là mưu mẹo, vì rượu được lên men từ bằng cách trôn lẫn dâu tằm và nho ăn trái để tạo màu đỏ cho rượu vang, sau đó đóng chai dưới những cái tên rất kêu như Château Dalat, nơi nếm thử rượu cũng rất nhân tạo, chẳng khác nào một nhà máy đóng chai không hơn không kém.

31Trong các khu du lịch nghiên cứu ở Nam Á và Đông Nam Á, việc dàn dựng hình ảnh kitsch này và sự thống nhất của nó tạo thành sản phẩm du lịch. Cảnh quan kitsch được sinh ra có liên đới đến trải nghiệm đặc biệt mà những điểm đến này muốn mang lại cho du khách.

32Chúng ta luận bàn về « trải nghiệm du lịch hoàn toàn » (Bachimon, Decroly, Knafou, 2016), theo nghĩa là một trải nghiệm đáp ứng tất cả các kỳ vọng của du khách, thậm chí còn vượt xa hơn, bởi vì có thêm « sự kinh ngạc » được tạo ra bởi tính chất đặc biệt của thiết bị (những trò vui mang tính chất biểu diễn, những đu quay chóng mặt…). Cuối cùng, theo nghĩa là trải nghiệm đó kết thúc với những kỷ niệm đẹp được khắc ghi trong ký ức, như những kỳ nghỉ và sự phục hồi mà du khách mong đợi. Đó chính là mục đích của du lịch kitsch, theo như công thức của C. Menon (2006), hướng đến « niềm vui (về tiền bạc), và (cho ai), mọi thứ phải được chuyển thành cuộc biểu diễn, giải trí, bưu thiếp ». Như một điều không thể tránh khỏi, kitsch thúc đẩy chủ nghĩa tiêu thụ. Trải nghiệm kitsch chỉ là một ảo ảnh, được chia sẻ bởi người tiêu dùng và người quảng bá, về sự bỡ ngỡ. Cảm giác hạnh phúc mà nó mang đến bắt nguồn từ hiệu ứng làm dịu, kết hợp với sự thừa nhận của xã hội mà du khách mong đợi, và nhờ đó, chụp ảnh selfie (bằng chứng tức thì) đã chiếm lĩnh vị trí nhiếp ảnh truyền thống (bằng chứng được phát lại)

A. Tính siêu thực giúp cái giả tạo trở nên chân thật hơn cái thực

33Trong phối cảnh kitsch, tất cả những vật thể nhân tạo được huy động để đạt được hiệu ứng siêu thực, theo nghĩa là thực tế hơn bản gốc, thậm chí là « thật hơn cái thực » (Eco, 1985). Hoặc thậm chí còn rõ ràng hơn cái thực (Eco, 1996), theo nghĩa là nó tự tạo cho mình cảm giác dễ nhìn, dễ chạm, dễ cảm nhận hơn. Do đó, điều này dẫn đến một dạng mê hoặc (Menon, 2006).

B. Sự khuyến khích chủ nghĩa tiêu dùng

37Sự khuyến khích chủ nghĩa tiêu thụ trở nên mạnh mẽ khi nó được thực hành như một bằng chứng về sự hiện diện tại nơi tham quan (Bachimon, Decroly, Knafou, 2017). Nó được thể hiện trong rất nhiều trải nghiệm tại chỗ (như sự nhân rộng các công viên giải trí « không thể thiếu ») và sự bão hòa các sản phẩm lưu niệm mang về. Các vật lưu niệm này được bày bán trong các quầy hàng hoặc các kiốt, trong những khu du lịch « trọng yếu », mà sự tham quan được thiết lập theo tiến trình dựng sẵn. Cũng tại các khu du lịch này, du khách tự chụp cho mình những bức ảnh tự sướng (selfie). Các bức ảnh, cùng với quà lưu niệm được mua, là minh chứng cho chuyến du lịch của du khách, đặc biệt được khuyến khích tiêu thụ để mở rộng trải nghiệm của họ. Baudrillard (1970), trong tác phẩm La société de consommation (Xã hội của sự tiêu thụ), đã miêu tả logic tiêu dùng này bắt nguồn cho bối cảnh kitsch : « sự ân cần của quảng cáo và dịch vụ, nụ cười, hệ tư tưởng về hạnh phúc, sự đẩy lùi lo lắng, sự tương đồng, sự làm phẳng tất cả đối tượng bằng lòng khoan dung, « trò chơi kết hợp » của hệ thống, khía cạnh ma thuật tạo bầu không khí, tất cả những thứ kể trên hét lên kitsch ». Ngay khi dấu hiệu bị nhầm với vật (khi rượu giả nhợt nhạt trở thành rượu vang, hoặc khi các xe đạp nước mang hình dạng thiên nga trở thành những con thiên nga duy nhất trên hồ, được người ta chụp ảnh và xem như thiên nga), sẽ tạo ra một dạng không khí soft (dịu dàng), một cảm giác hạnh phúc có lợi cho việc tiêu thụ các sản phẩm « đi kèm » (nước uống, đồ ăn vặt, snack) được cho là để nâng cao trải nghiệm du lịch đầy đủ và trọn vẹn nhất có thể. Phạm vi tiêu thụ này hóa ra tương ứng với một tinh vân (hay trạng thái khí gaz của S. Dawans và C. Houbart, 2011) ngay khi các vật thể/dấu hiệu thể hiện sự không nhất quán giữa chúng và vật tham chiếu. Khu nghỉ dưỡng kitsch với sức hấp dẫn của nó thuộc dạng không đồng nhất này tạo ra hiệu ứng bất ngờ, làm sững sờ cảm xúc thẩm mỹ (Stendhal, 1826), dẫn đến việc tiêu thụ.

38Câu hỏi đặt ra là : tại sao loại hình khu du lịch gán mác « thiên nhiên » này lại có thể phát triển ngày một lớn mạnh tại Đà Lạt nói riêng cũng như ở Việt Nam nói chung (thậm chí là ở các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á khác như Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, v.v.) ? Bảng so sánh dưới đây (tài liệu số 12) sẽ đưa ra câu trả lời dựa trên khía cạnh chi phí (được tính bằng đồng euro) :

Tài liệu số 12 : So sánh chi phí phải trả khi tham quan thiên nhiên kitsch hóa và thiên nhiên không bị kitsch hóa ở Pháp và Việt Nam

Việt Nam

Pháp

Thiên nhiên kitsch hóa (1)

Thác Datanla

Với các hoạt động tốn phí : vé vào cổng + Mán trượt + Cáp treo + Thang máy

= 7 EUR/người.

Công viên giải trí Disneyland

Hoạt động tính phí : vé vào cổng 75 EUR/người (1 ngày/1 công viên)

Thiên nhiên thuần túy (2)

Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà

Hoạt động chính : Trekking 35 EUR/ngày/người.

Khu trượt tuyết Arêches-Beaufort

Hoạt động tính phí : đi cáp treo lên núi 30 EUR + thuê dụng cụ trượt tuyết 38 EUR

= 68 EUR/ngày/người.

Thu nhập bình quân đầu người

175 EUR/tháng

2.100 EUR/tháng

Tỷ lệ (1)/(2)

Thiên nhiên kitsch hóa rẻ hơn 5 lần so với thiên nhiên không bị kitsch hóa

Thiên nhiên kitsch hóa thậm chí đắt hơn thiên nhiên không bị kitsch hóa

39A T. LE, 2019

40Nếu so sánh giá của thiên nhiên bị kitsch hóa và thiên nhiên không bị kitsch hóa ở Pháp và Việt Nam : chúng ta nhận thấy rằng đối với Việt Nam, gói sản phẩm của thiên nhiên bị kitsch hóa rẻ hơn tận 5 lần so với một cuộc trekking ở vườn quốc gia Bidoup Núi Bà. Ngược lại ở Pháp, một ngày vui chơi tại Disneyland lại có giá đắt hơn một ngày trượt tuyết. Chi phí đã giải thích phần lớn lý do vì sao du khách Việt, với mức thu nhập trung bình thuộc nhóm quốc gia đang phát triển, lại yêu thích các sản phẩm kitsch hơn. Sự khác nhau trong du lịch của thiên nhiên bị kitsch hóa và thiên nhiên không bị kitsch hóa có thể được diễn đạt qua gra-điên về cảnh quan du lịch sau đây (tài liệu số 13).

Tài liệu số 13 : Gra-đien về cảnh quan du lịch

Thiên nhiên kitsch hóa

Thiên nhiên không bị kitsch hóa

Dấu hiệu

Dư thừa

(Mức tối đa)

Tiết kiệm

(Mức tối thiểu)

Đối tượng

Vật thay thế

Thuần túy (dán nhãn riêng)

Thông điệp

Truyền tải ngay lập tức

Truyền tải qua giải thích

Sản phẩm

Giá phải chăng

Giá đắt đỏ

Định vị không gian

Trung tâm thành phố

Khu vực ngoại vi, khu bảo tồn, vườn quốc gia

Tính khác biệt

Giảm (nhóm)

Mạnh (Sự bỡ ngỡ)

Ph. Bachimon, 2018

41Thiên nhiên kitsch hóa tích lũy tối đa những dấu hiệu, sử dụng vật thay thế, vật giả để tạo ra những hiệu quả tức thì. Sản phẩm bán ra có giá phải chăng để phục vụ đối tượng khách du lịch đại trà, và thường mang đến cho khách hàng tính khác biệt nhỏ, không quá chênh lệch so với cuộc sống thường nhật, đây cũng là điều mà khách hàng có thể dễ dàng truy cập được. Trái lại, một sản phẩm « tự nhiên » có tối thiểu những dấu hiệu, vật nguyên gốc và thông điệp liên quan nhiều đến việc giải thích hơn là qua trung gian. Giá cả vì thế cao hơn, vì để trải nghiệm, cần phải di chuyển vào những khu vực ngoại vi, khu bảo tồn hoặc các công viên quốc gia.

C. Sự hạnh phúc và sự bỡ ngỡ giả vờ

42Hệ thống du lịch kitsch tuyên bố, trong khả năng truyền thông của mình, cung cấp một trải nghiệm khác thường và đặc biệt cho khách hàng bằng cách tạo ra ảo ảnh về cảm giác « mạnh mẽ » và phiêu lưu. Trải nghiệm sau đó – hoặc thậm chí tức thì thông qua hình thức selfie và mạng xã hội – có giá trị về mặt xã hội. Tại Đường Hầm Đất Sét, một dạng thế giới thu nhỏ của Đà Lạt được làm từ bê tông phủ đất sét (giả của giả), những con đường mòn tiếp cận các « công trình » (nhà thờ, đỉnh Núi Bà, tượng Yersin…) và tương tự tại Gulu, điểm du lịch tập trung nhiều trứng đá, bị nhấn mạnh về tính chất « trơn trượt » và « nguy hiểm » cho việc dạo bộ (« Chú ý », « nguy hiểm », « hãy vịn tay vào lan can »). Chủ nghĩa giật gân này được truyền tải cho du khách như một phần của trải nghiệm bị cắt khỏi thế giới. Hay như Làng Cù Lần được tạo thành từ miệng núi lửa kín và sâu, nhằm tạo hiệu ứng « bong bóng » (Moles, 1971), sự cô lập của khu du lịch mang đến cho du khách ấn tượng này. Ngoài ra, việc thu phí (vé vào cổng) làm cho những khu này được bảo vệ một cách nghịch lý. Đà Lạt được biết đến như hàng triệu phiên bản về điểm đến « trăng mật ». Có thể kể đến như Véronne (với chuyện tình Roméo và Juliette), Paris (và Cầu Nghệ Thuật với hàng ngàn móc khóa/lời thề), hay Venise (với những chiếc thuyền gondola dưới chân Cầu Than Thở), ngoài ra, không quên kể đến những hồ nước thơ mộng cùng với thiên nga bơi lội, hay rượu vang (và sự say đến từ rượu), hoa hồng, hoa tulíp hay những trái dâu Tây, và gần đây là hoa oải hương, làm suy giảm hiệu ứng « disneylandisation » (Brunel, 2012) một Las Vegas phiên bản Việt.

43Nếu muốn trở nên đặc biệt, trải nghiệm kitsch cũng muốn được an toàn và phải tạo ra cho du khách một ảo tưởng về hạnh phúc. Vì vậy, với khuôn mẫu của thiên đường có thể trải nghiệm trong tuần trăng mật, để đạt được thành công, dĩ nhiên cần diễn ra trên bờ hồ (bề mặt « mê hoặc » như một tấm gương trước mắt, ở đó, du khách có thể chụp ảnh selfie và cũng ở đó, họ có thể dùng xe đạp nước), trên mặt hồ, còn có sự hiện diện của những con thiên nga giả đại diện cho tính chung thủy (tài liệu số 14) và những quán hàng neo đậu ven hồ. Một ví dụ khác, phiên bản tái tạo của một tàu hơi nước cổ tượng trưng cho sự lâu dài (tài liệu số 15) : được trang trí theo kiểu lãng mạn để phục vụ cho mục đích chụp ảnh (ảnh « chính thống » được chụp từ chuyên gia giúp vĩnh cửu hóa trải nghiệm của du khách).

44Sự kitsch hóa các địa điểm du lịch nhằm mục đích gì, và cho ai ? Trải nghiệm trực tiếp mang đến cho du khách dường như đi kèm với một thông điệp cao siêu, mà chúng tôi sẽ giải mã, một thông điệp, khi vượt ra khỏi vẻ bề ngoài, mang đến một chiều sâu nhất định cho những gì…không cần theo vẻ bề ngoài.

A. Sự hiện đại tây phương với giá phải chăng

45Về mặt kinh tế, kitsch là « hình ảnh » của sự hiện đại không đắt đỏ. Đầu tiên, vật nhân tạo (chất giả đá hoa cương, nhựa) có giá thấp hơn so với vật nguyên gốc, nhờ việc sao chép lại nên khách du lịch chỉ cần thực hiện một chuyến đi ngắn để xem (thay vì phải thực hiện nhiều chuyến đi dài để xem các bản gốc nằm rải rác). Ví như Đà Lạt tập hợp tối đa những vật đại diện gợi nhớ Paris. Lớp lót « giá rẻ » này là một hình thức dân chủ hóa làm hài lòng nhóm khách Việt có thu nhập trung bình, không có nhiều điều kiện để du lịch xa.

46Câu hỏi đặt ra về sự tiêm nhiễm kitsch phương Đông là mối quan hệ mà nó vun đắp với kitsch phương Tây. Tại phương Đông, kitsch có một liên kết tôn giáo hữu hình và sống động (Pinney, 1995 ; Olalquiaga, 2013), ở châu Âu, nghệ thuật baroque trước đây bị xem thường nhưng ngày nay đã được di sản hóa. Nhưng kitsch ở phương Đông còn là một chế độ tây hóa dựa trên tập quán. Chúng ta có thể nói rằng nó đóng vai trò của biểu tượng dùng để chứng minh (và do đó để tự hài lòng) những gì có thể nhìn thấy trong sự hiện đại (trong trường hợp biểu tượng đó liên quan đến trang sức và vẻ lộng lẫy của thần linh) mà không vượt qua điều đó.

47Nếu kitsch cho phép sự dân chủ hóa tiếp cận với hiện đại và du lịch đại trà, và hình ảnh Tây hóa, thì nó thực sự che dấu một chiến lược chính trị.

B. Từ một soft power hay vẻ đẹp ma mị…

48Quá trình kitsch hóa này, được chứng minh là phức tạp và hiện đang chiếm ưu thế trong việc xây dựng cảnh quan du lịch ở châu Á, không phải không có các chiến lược đa dạng hỗn hợp.

49Chính nhờ việc sử dụng kitsch bằng quyền lực chính trị mà C. Menon (2006) dùng thuật ngữ « kitsch mị dân » để chỉ định một quy trình nhằm xóa sổ « nhận thức mang tính chỉ trích của các cá nhân » (theo cùng một nguyên tắc vui vẻ trong rạp xiếc dưới thời Roma) và hợp pháp hóa quyền lực bằng cách thiết lập một số thiết bị mang tính cách sân khấu thẩm mỹ để « thu hút dư luận và tạo lòng trung thành, bằng cách gây mê nó trong mối quan hệ với thực tế. Do đó, kitsch phát sinh từ một quá trình cụ thể hóa cảnh quan, và trở thành những công trình « softs » (Baudrillard, 1981, 1990) nhấn mạnh vẻ bề ngoài (cái giả tạo), bởi vì giúp thoát khỏi những điều mơ hồ và những mâu thuẫn của cuộc sống thường nhật xảy ra bên ngoài những nơi được bảo vệ này. Bằng hai từ, kitsch tương ứng với những gì C. Menon (2006) gọi là một lối « thẩm mỹ gây mê »

50Kitsch xuất hiện với các cách tiếp cận mềm mỏng (slow, soft… thậm chí là smart) theo nghĩa mà nó giữ lại (và chỉ trình bày) từ thế giới khía cạnh ngọt ngào của các món ăn, sự thư giãn thông qua âm nhạc, mùi hương của nước hoa và thế giới thần tiên của các vật dụng, qua đó thể hiện phần tích cực của sự tồn tại (đó có thể là niềm vui trẻ thơ, hoặc niềm hạnh phúc của các cặp vợ chồng mới cưới…). Thế giới vui vẻ này (một thời kỳ hoàn kim được xem lại và chỉnh sửa bởi hiệu ứng Fontaine de jouvence của kitsch) là thế giới của nụ cười xuất hiện trong các tấm ảnh và vidéo được thực hiện dưới dạng selfie. Ngoài ra, kitsch chỉ cho thấy mặt tốt của mọi thứ, tạo ra với giá của sự hời hợt, sự chồng chéo, thậm chí là sự mù mờ so với thực tế xung quanh, loại bỏ « khỏi phạm vi thị giác của nó tất cả những gì không chấp nhận được trong sự tồn tại của nhân loại » (Kundera, 1985) : « Như thuốc an thần, bằng cách kìm nén những lo lắng và trầm cảm, kitsch cho phép cuộc sống chảy như một dòng sông êm đềm, chỉ chảy qua những xúc cảm thẩm mỹ » (Menon, 2006).

51Cũng cần lưu ý rằng các mặt tái xuất hiện (đặc biệt là chuyển hướng) rất ít trong môi trường kitsch. Thực tế tại một vài khu du lịch ở Đà Lạt (Đường hầm Đất sét là một minh chứng khá rõ, tài liệu số 5), tìm thấy một vài dòng chữ (gọi là tag !) nhưng trên toàn bộ lại không có (hoặc bị xóa mất) khỏi một thiết bị không hướng đến sự tự chỉ trích, và điều này, dùng cho một cuộc bảo trì tỉ mỉ nhằm xóa bỏ bất kỳ sự thô bạo nào, bất kỳ mặt trái của bài diễn văn « được công nhận ». Quả vậy, « Kitsch là toàn trị. Sự đồng thuận phải tuyệt đối, không có động cơ thầm kín, không có sự nghi ngờ : trên hết, nhận thức quan trọng của chủ thể không được khơi dậy , nó phải đặt câu hỏi về đối tượng hoặc lý do tồn tại. (…) Đằng sau vẻ ngoài nhẹ nhàng của vật thể kitsch, ẩn dấu một sự bạo lực mềm mại » (Menon, 2006). Như tác giả giải thích (Ibidem), « để những ảo ảnh này được hiệu quả, chúng không nhất thiết phải thật giống, mà chỉ cần chúng phải đẹp và thú vị ». Vì vậy, phiên bản Roméo-Juliette phương Đông được xây thành tượng lớn trên đỉnh Langbiang.

52Sự kitsch hóa các khu du lịch cuối cùng được thể hiện như một quá trình lý tưởng hóa cảnh quan là một phần của hệ tư tưởng quyền lực tại chỗ.

C. …Đến sự hợp pháp hóa của chính quyền

53Kitsch chỉ truyền tải những thông điệp tích cực, xác nhận một hệ tư tưởng chính trị đơn giản, dạng như một thế giới lý tưởng được thành lập dựa trên phép biện chứng duy vật. ở Việt Nam, Làng Cù Lần là bối cảnh của phép biện chứng này : trước tiên là chủ để về dân tộc, nằm xen kẽ giữa các nhà sàn như nơi ở truyền thống của dân tộc thiểu số là những thiết bị quân đội bao gồm các vật dụng minh họa cho chiến tranh (tài liệu số 16 và 17) : jeep, lều, căng tin, tên lửa…nơi không khí là một cuộc bao vây « quân sự », của quân đội Việt Minh hay Việt Cộng giải phóng đất nước. Và bổ sung duy nhất được đề nghị cho tour tham quan này là đi xe jeep quanh ngôi làng trong rừng rậm. Thông điệp nhắn gửi khá rộng : quân đội Việt Nam bảo vệ dân tộc thiểu số, ngay cả khi chúng ta biết rằng trong bài phát biểu off của đa số người Kinh, đó là sự ngờ vực chiếm ưu thế đối với hành vi « đáng ngờ » của sự thay thế mà người ta dành cho nhóm thiểu số trong cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ. Kitsch đã xóa bỏ cách giải thích ngược lại, bởi vì về mặt chính trị, là không chính xác, một quân đội Việt Nam chèn ép nhóm thiểu số, hoặc một chính phủ tiếp tục theo dõi họ chặt chẽ thông qua các cuộc tập hợp những ngôi làng dưới dạng bungalow không có nét dân tộc…và vì vậy chúng tôi không ghé thăm.

54Ở Trung Quốc, thông điệp chính trị là xây dựng bản sắc dân tộc (hệ tư tưởng dân tộc), của đa số người Hán. Do đó, việc kitsch hóa các khu du lịch được thực hiện bởi các vật nhân tạo, nhắm vào việc dựng cảnh trong khuôn khổ nâng cao giá trị cảnh quan sơn thủy, một biểu tượng uy tín của văn hóa Trung Quốc, sự đa dạng và phong phú của các nền văn hóa dân tộc thiểu số. Thông qua hình ảnh quảng bá gửi đến du khách, thể hiện niềm hạnh phúc của họ khi sống hòa mình vào thiên nhiên, nơi chúng tôi bắt gặp sự hiện diện của vật hiện đại trong những ngôi làng du lịch hóa này (chiếu sáng công cộng, bãi đậu xe, thiết bị chữa cháy…), sự phát triển du lịch này cũng là một cách thúc đẩy lý tưởng xã hội chủ nghĩa (Véron, 2013). Ở Trung Quốc, trong những ngôi làng dân tộc thiểu số mở cửa cho du khách, một loại chuyện kể quốc gia được xây dựng, củng cố bởi lòng yêu nước (Oakes, 1998). Ở Việt Nam, cùng một hệ tư tưởng (xung quanh đa phần người Kinh) gặp nhau, nhưng quy mô nhỏ hơn ở tính vĩ mô của Nhà nước và hơn thế nữa là sự vượt trội của một dân tộc đã chiến thắng tất cả các đế quốc, dù là Tây (Pháp và Mỹ) hay trong khu vực (Trung Quốc và Nhật Bản). Cách dàn dựng đồng bộ này chỉ là chủ nghĩa dân tộc của một hòa bình xã hội.

Ở Việt Nam, mà còn cả ở Trung Quốc, « du lịch đóng vai trò là nơi trưng bày quốc gia, mà Nhà nước huy động để phục vụ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thống nhất và nhất trí (…) Các viện bảo tàng dân tộc học được vận hành theo hình ảnh một đất nước thống nhất vượt khỏi sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc » (Cabasset-Semedo et al., 2010).

55Ở vùng núi Nê-pan, cuối cùng thì, tính nguyên gốc không nhất thiết phải được nghiên cứu nhưng dường như nó được áp đặt xung quanh khái niệm về tính duy nhất. Có chăng một nhận thức rằng lợi ích kinh tế không nằm ở sự biến tính dẫn đến quá trình kitsch hóa cảnh quan ? Một dạng hạn chế, của chủ nghĩa tối giản làm suy yếu sự xuất hiện của các đường cho xe chạy có lợi cho việc du nhập các sản phẩm (trang trí, sử dụng…) đến từ thế giới hiện đại hời hợt ? Nếu những thung lũng Nê-pan, cũng như vùng trung du Việt Nam, được xem là cao nguyên của chủ nghĩa cộng sản, Nê-pan không thoát khỏi công cụ này vì cuối cùng, nó bị áp đặt tầm nhìn bởi thẩm mỹ hinđu giáo, vốn không phải là của người tiểu số, thường là Phật tử, trong các thung lũng trekking. Ở Việt Nam và Trung Quốc, dĩ nhiên là hơn Nê-pan, đang tiến tới sự hợp nhất lịch sử giữa hai chủ nghĩa duy vật : chủ nghĩa Mác, tượng trưng cho ý thức hệ chính thức, trong sự chống lại chủ nghĩa duy tâm (cho là che giấu thực tại), đề nghị sự tiếp cận bình đẳng cho tất cả, và chủ nghĩa tự do, so với chủ nghĩa duy vật tiêu thụ, mà hạnh phúc bắt nguồn từ sự tiêu thụ các sản phẩm hữu hình. Chúng ta cũng có thể tái hiện hiện tượng kitsch hóa trong quá trình chuyển đổi chính trị đánh dấu các xã hội mới nổi ở Viễn Đông, một mô hình (mác-xít) sang mô hình khác (tự do). Sự biến chuyển có vẻ mềm mại khi nó có thể được thể hiện như một sự cộng sinh của cả hai.

56Kitsch truyền cho các bản sao của vật thể (kiến trúc, thiên nhiên, văn hóa) một giá trị đặc biệt, đó là sự bổ trợ. Hiệu ứng này có thể đến lượt mình (trường hợp các biệt thự cổ Đông dương) trở thành tính nguyên gốc của điểm đến, tính nguyên gốc cũng được sao chép, rập khuông và nhân rộng (Davallon, 2006).

57Trên thực tế, kitsch là một thông điệp cao siêu có quan hệ khách thể. Cao siêu theo nghĩa mà nó không được đưa ra như một thông tin, mà là sự vắng mặt của thông điệp theo nghĩa chỉ cần những sự thay thế đã đủ. Dĩ nhiên chúng tôi đã thấy điều này, thông điệp khá mạnh mẽ : đó là một thế giới soft (ngọt ngào), có tính cách làm dịu dựa trên sự biến đổi của cái thực tế trong một bối cảnh giản đơn và ngây thơ, hoặc tự nhận là như vậy, nhưng cũng « toàn trị » ngay khi nó liên quan đến tất cả các giác quan và không cần sự thay thế.

58Trái ngược với luận điểm phát triển bởi Ch. Génin (2006), trong đó bảo vệ quan điểm cho rằng trong xã hội phương Tây, kitsch có một khía cạnh lật đổ, kitsch xuất hiện tại châu Á, như một chiến lược hợp thức hóa quyền lực tại chỗ, vì như bản chất của nó, khác với phương Tây, thậm chí tạo ra các nhân tố quyền lực.

59Kitsch, ngay cả khi nó không thực sự được định nghĩa, ngày nay là một « văn hóa » rất phổ biến ở châu Á. Nó xuất hiện như một sự phong phú cho phép thoát khỏi sự nghiêm khắc giáo điều. Sự phong phú này có thể hoạt động như một cái rây an toàn (và thư giãn) giá phải chăng. Nhưng trên hết là thông điệp chính trị, cho phép viết lại một kết thúc mang tính vật chất hạnh phúc của xã hội hiện tại (không có hậu chủ nghĩa cộng sản như ở Trung Quốc, cũng như sẽ không có thời kỳ hậu hoàng gia ở Thái Lan hay Nê-pan). Một dạng « chủ nghĩa hiện tại » (Hartog, 2003) thuộc loại tốt nhất trong tất cả thế giới, được đặc trưng bởi các dấu hiệu vật chất của sự phong phú đầy đủ. Kitsch là sự thanh cao hóa những xung đột, và những mâu thuẫn đánh dấu xã hội, bởi sự dư thừa trông như sự phong phú, giống như lời tiên tri tự hoàn thành của sự thờ cúng cargo ở Mélanésie (Worsley, 1970). Đúng là các sự kiện diễn ra theo chu kỳ, Noel, mùa Xuân, lễ hội hoa…tạo thành nghi thức thế tục hóa các lễ hội và những lễ kỷ niệm khác, và tạo ấn tượng về sự vĩnh cửu (dưới dạng sự vĩnh cửu lặp lại), một khung cảnh trong mơ cho sự bất biến của thời gian không bao giờ trở lại. Thiên nga bằng thùng các-tông hoặc bằng nhựa rất bền, cũng giống như các nhà sàn dân tộc được xây bằng bêtông hoặc xe jeep của các nhà cách mạng…so với tự nhiên, không chắc chắn hơn và gần đây bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng tính biến đổi của nó do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Sự bất biến của kitsch là an toàn theo nghĩa nó kết hợp tính hoài cổ với sự hiện đại, trong một hỗn hợp gần với hậu hiện đại. Câu hỏi có thể đặt ra để biết rằng sự nhân tạo hóa cảnh quan trong hệ thống du lịch kitsch có là một công cụ hiệu quả trong việc quy hoạch các không gian du lịch hay không. Chúng tôi đã quan sát thấy rằng nó đặc biệt rẻ và cho phép mở các khu điểm du lịch đại trà. Về nguy cơ, đó là sự thật, của sự tiếp biến và biến tính xuất hiện. Nhưng cuối cùng ? nếu lợi ích kinh tế có vẻ giản đơn, ít nhất là trong ngắn hạn, để hiểu, sự hão huyền của trải nghiệm du lịch kitsch, cũng như tính bền vững của nó xuất phát từ sự thiếu tính nguyên gốc (do đó có thể tái tạo một cách vô hạn) thậm chí là sự tuân thủ của nó, được đặt ra : kitsch phải chăng chỉ là giai đoạn đầu của phát triển du lịch, tiếp theo đó là các giai đoạn của sự màu mè hóa văn hóa, và có thể tiến xa hơn như trở thành di sản, thậm chí là được tự nhiên hóa lần nữa ?