Đất nước Việt Nam được biết đến là một đất nước đa văn hóa, 54 dân tộc anh em là 54 nét văn hóa khác nhau, chính điều đó làm nên sự đa dạng văn hóa. Trong số đó, lễ hội truyền thống cũng là một đặc trưng tiêu biểu của mỗi dân tộc.
1. Lễ hội Đền Hùng – Phú Thọ
Lễ dâng hương tại đền Chùa Hương
3. Hội Lim
Được tổ chức từ ngày 6-8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, hội Gióng là lễ hội tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng thánh Gióng, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian việt nam. Lễ hội mô phỏng một cách sinh động diễn biến các trận đấu của thánh Gióng và nhân dân Văn Lang trong cuộc chiến chống giặc Ân, thông qua đó giáo dục lòng yêu nước, truyền thống thượng võ, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. Hội Gióng được tổ chức ở nhiều nơi, nhưng tiêu biểu nhất là ở Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thủ đô Hà Nội). Theo truyền thuyết, sau khi đánh thắng giặc Ân, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn là nơi dừng chân cuối cùng của thánh Gióng trước khi bay về trời. Để tưởng nhớ công lao của đức thánh, tại đây, nhân dân đã xây dựng Khu di tích Đền Sóc bao gồm 6 công trình, trong đó có tượng đài thánh Gióng và các nhà bia. Ngày 6/11/2010, hội Gióng đền Phù Đổng và đền Sóc Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
5. Lễ Khao Lề Thế Lính
Lễ Khao Lề Thế Lính là một lễ hội được nhân dân huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi duy trì hàng trăm năm nay, thường được tổ chức vào ngày 20 tháng 2 âm lịch hàng năm. Thời gian đầu khi mới thành lập đội Hoàng Sa, cứ hàng năm, người của đảo Lý Sơn lại được tuyển mộ vào đội này làm binh, phu đi khai thác và bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa. Những chàng trai này thay thế cho đội quân đã ra đảo từ năm trước để tiếp tục nhiệm vụ, vì thế gọi là “thế lính”. Lễ Khao Lề Thế Lính là một lễ hội độc đáo nhằm ghi nhớ công ơn người xưa. Lễ hội tổ chức rất công phu với nhiều công đoạn, song đặc biệt hơn cả là hình thức thả thuyền giấy ra biển, ngụ ý việc ra biển sẽ vẫn mãi mãi được tiếp nối, duy trì. Những ngày này, người địa phương còn thực hiện đắp và dọn các ngôi mộ gió của các chiến sĩ hải đội hoàng Sa (những ngôi mộ được đắp để tưởng nhớ những người đã ra đi và không thể trở về). Lễ hội thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, khẳng định truyền thống gìn giữ và bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của đất nước.
Nghinh Ông là lễ hội dân gian lớn nhất ở Cà mau, có nguồn gốc xa xưa từ người Chăm và được người Việt tiếp thu, phát triển. Nghinh Ông có nghĩa là tưởng nhớ công ơn của loài cá voi – được coi là vị thần Đại tướng quân Nam Hải đã nhiều lần cứu giúp dân đi biển vượt qua sóng to gió lớn. Đây cũng là lễ hội cầu cho biển lặng, gió hòa, ngư dân làm ăn may mắn, phát đạt, an khang.
Lễ hội được tổ chức trong ba ngày: 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch hàng năm tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Ngày 15 là chính hội, nghi lễ bắt đầu từ 14 giờ, chủ lễ cùng ban trị sự Lăng Ông trang trọng thỉnh lư hương lên kiệu (Long Đình), được 8 học trò lễ khiêng và theo hầu. Các đội trống lân, cờ ngũ sắc, đội binh khí: kích, kiếm, bát xà mâu; đoàn múa mâm… ăn mặc lễ phục xếp thành hai hàng dài từ chánh điện ra tới ngoài sân. Khi diễu hành, bà con trong vùng cũng nhập đoàn đi theo. trước đó đã có hàng trăm chiếc tàu đánh cá của ngư dân trong và ngoài tỉnh được trang trí cờ hoa neo đậu dưới bến sông.
Nghi lễ diễn ra trên biển
Ngoài những lễ hội kể trên, Việt Nam hàng năm còn diễn ra rất nhiều lễ hội ở các vùng khác nhau. Mỗi vùng miền có những truyền thống khác nhau, trong đó lễ hội cũng là một giá trị tinh thần được người dân mỗi vùng chú trọng, là dịp để họ thể hiện sự ghi nhớ công ơn cao cả của các vị anh hùng, vị thần đã có công với họ. Đó cũng là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.