Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới – Media story – Tạp chí Cộng sản

bởi

trong

Nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Xây dựng nhà nước pháp quyền là xu thế tất yếu của xã hội hiện đại, tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, dân tộc sẽ có một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể. Ở Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.

Tổng kết 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”(1). Đây là một trong mười hai định hướng lớn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được khẳng định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Sự khẳng định đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả và phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đây được xem là một trong những “mắt xích” quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đến kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2030) và tầm nhìn đến kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2045).

Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nhận thức về nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng chưa thống nhất. Các cơ quan nghiên cứu pháp luật và các chuyên gia pháp lý đầu ngành còn có những quan điểm khác nhau và khá đa dạng về nhà nước pháp quyền(2), nhưng nhìn chung đều thống nhất ở điểm chung của nhà nước pháp quyền, đó là: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là một phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.

Lý thuyết và thực tiễn cho thấy, trong nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước, nhân dân trao quyền lực cho nhà nước bằng cơ chế dân chủ và giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước theo nguyên tắc dân chủ. Vì thế, nhà nước pháp quyền là “biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ”(3), là trung tâm của hệ thống chính trị dân chủ. Các thành viên trong xã hội có quyền tham gia vào các công việc của nhà nước, cho nên, nhà nước pháp quyền phải gắn liền với một chế độ hợp hiến/chủ nghĩa hiến pháp (constitutionalism), một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, vì con người, nhằm bảo đảm toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước vận hành trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật và theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong xã hội hiện đại, muốn thực hành dân chủ, phát huy vai trò chủ thể nhân dân và xây dựng hệ thống chính trị dân chủ thì phải xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là phương thức chung mà thông qua đó công dân đạt tới xã hội dân chủ và khẳng định quyền làm chủ của mình một cách thực chất. Vì thế, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như “một phương thức thực hiện quyền lực, một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều đó có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ, tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế – xã hội, nhưng không thể xuất hiện trong một xã hội không có dân chủ” (4).

Từ nhận thức chung đó, GS, TSKH Đào Trí Úc và cộng sự mô tả Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với sáu đặc trưng cơ bản: 1- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân; 2- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; 3- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ; 4- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; 5- Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân; 6- Nhà nước và xã hội do một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam(5). Trong khi đó, GS, TS Nguyễn Duy Quý và PGS, TS Nguyễn Tất Viễn mô tả Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bảy đặc trưng cơ bản: 1- Là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2- Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; 3- Thừa nhận vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; 4 – Trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, thể hiện vai trò của một nhà nước “phục vụ”, đồng thời thể hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước và xã hội; 5- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với xã hội công dân định hướng xã hội chủ nghĩa; 6- Nhà nước bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế; 7- Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo(6). Đại hội XI (2011) của Đảng đã đưa ra mô hình tổng thể về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(7). Các quan điểm này đã và đang được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, trong đó Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các đặc trưng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 8,…) và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong kỳ Đại hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021): “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”(8). Các đặc trưng cơ bản về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được tổng kết, đánh giá và khái quát một cách khá đa dạng, phong phú, trong đó nhà nước “lấy pháp luật làm cơ sở pháp lý thống nhất cho việc điều hành mọi hoạt động của nhà nước, của xã hội, của công dân, dùng pháp luật làm chuẩn mực để phân biệt tính hợp pháp và không hợp pháp; việc được làm và không được làm trong thi hành pháp luật của các cơ quan và cán bộ nhân viên nhà nước, trong việc tuân thủ pháp luật của công dân”(9), tuy nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong xã hội, nhưng không tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật; pháp luật phải thực sự tiến bộ, hiện đại, vì con người, vì sự phát triển bền vững.

Với những nhận thức chung đó về nhà nước pháp quyền đương đại, rõ ràng nhà nước pháp quyền hiện thực là thành tựu của văn minh nhân loại, là biểu hiện về trình độ phát triển cao của dân chủ, pháp luật và quản trị nhà nước, là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước tối ưu, hiệu quả, mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của Hiến pháp, pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực nhân dân và vì sự văn minh, tiến bộ, phát triển con người và nhân loại.

Như thế, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng phục vụ cho yêu cầu bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, hạn chế sự tùy tiện của nhà nước, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phát huy chủ quyền nhân dân và kiến tạo phát triển xã hội. Theo đó, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải luôn bảo đảm các đặc trưng: trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thứ hai, quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân, luôn thống nhất, được tổ chức khoa học, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thứ ba, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm, bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân; thứ tư, cơ quan lập pháp hoạt động chuyên nghiệp và hiệu quả; hoạt động của cơ quan hành pháp phải công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hành động, kiến tạo phát triển, phục vụ tốt; cơ quan tư pháp liêm chính, độc lập trong xét xử; bảo đảm quyền tiếp cận công lý; thứ năm, hệ thống pháp luật dân chủ, văn minh, tiến bộ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; thứ sáu, văn hóa pháp lý, văn hóa pháp quyền luôn được coi trọng và phát huy sâu rộng; thứ bảy, Nhà nước thực hiện tốt các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế.